Ho là một phát thở ra mạnh và đột ngột. Ho là cơ chế tự vệ sinh lý quan trọng để tống ra ngoài các dị vật ở phần trên của đường hô hấp có thể gây tắc đường thở. Ho cũng có thể là triệu chứng của một số rối loạn trong cơ thể. Người ta có thể chủ động ho, nhưng trong đa số trường hợp, ho xảy ra ngoài ý muốn và động tác này có tính chất phản xạ. Tuy nhiên, nhiều virut và
vi khuẩn có thể truyền nhiễm từ người này sang người khác thông qua ho.
Ho nhiều làm cho người bệnh
mất ngủ, mất sự yên tĩnh của người sống cùng. Ho kéo dài làm người bệnh lo lắng, nghĩ rằng mình mắc một bệnh gì khó chữa, nên thường đến bác sĩ để khám bệnh.
Động tác ho có thể do phản xạ hoặc theo ý muốn. Khi ho, các cơ hô hấp phải huy động tối đa, làm cho áp lực trong lồng ngực và đường hô hấp ở mức tăng cao nhất. Độ tăng áp lực giữa khí đạo và không khí ngoài trời với việc đóng mở thanh môn, khiến tốc độ không khí được tống ra ngoài nhanh gần bằng tốc độ của âm thanh, đủ lực để đưa các dị vật ra ngoài. Ho có thể có đờm, ho khan, ho từng cơn, hoặc ho húng hắng,
Các nhà chuyên môn phân triệu chứng ho như sau:
Ho khan kéo dài:
Ho khan không có triệu chứng nào khác hơn là chính triệu chứng ho, bệnh nhân thường cảm thấy vẫn khoẻ, không có nặng ngực và khó thở.
Ho khan là ho không có đàm và thường gây ngứa họng, loại ho này có thể gây khàn giọng hoặc mất giọng
Tuy nhiên, có người nuốt đờm hoặc vì không muốn khạc hay vì không biết khạc đờm. Ho khan kéo dài cần chú ý đến: Bệnh của thanh quản, viêm tai, viêm xương chũm mạn tính; Do ung thư phế quản: xảy ra ở người có thâm niên hút thuốc lá, thuốc lào lâu năm (trên 10 năm).
Ho khan kéo dài còn do các bệnh tổ chức kẽ của phổi như xơ phổi, phù phổi bán cấp, ung thư phổi hoặc lao kê hoặc do tràn dịch mạn tính màng phổi. Ho kéo dài cũng có thể do một số chất độc gây kích thích trực tiếp do cơ chế miễn dịch dị ứng (hen).
Một số trường hợp rối loạn tinh thần có biểu hiện ho nhiều, không có tổn thương trên đường hô hấp. Nhưng đó là những trường hợp hiếm gặp. Ho khan kéo dài còn do tác dụng phụ của một số thuốc, nhất là thuốc điều trị bệnh tăng huyết áp (coversyl).
Ho có đờm:
Ho có đờm là ho thường kèm với tình trạng khạc ra chất nhày hoặc đờm. Ho có đờm thường là triệu chứng còn lại sau khi bị viêm họng, viêm xoang hay ngạt mũi… Người bệnh thường có cảm giác nặng ngực, khó thở và mệt.
Là tình trạng người bệnh bị ho và cảm thấy nặng ngực, ho thường khạc ra chất nhầy và đờm. Bệnh nhân có cảm giác nghẹt thở và khó thở, mệt lả. Các triệu chứng thường tăng lên khi đi bộ và nói chuyện. Ho có đờm đa số nguyên nhân là do viêm phế quản mạn tính, cũng có khi là triệu chứng ho sau khi viêm họng, viêm mũi và viêm xoang…
Ở một người nghiện thuốc lào, thuốc lá lâu năm bị ho có đờm kéo dài, đồng thời tính chất của ho thay đổi hoặc ho ông ổng là dấu hiệu của báo động ung thư phế quản. Ho khạc đờm nhiều kèm theo bội nhiễm luôn phải chú ý đến ung thư họng – thanh quản, thực quản, khí quản…
Ho ra máu:
Là tình trạng ho khạc thấy máu xuất hiện kèm theo. Nó có nhiều mức độ từ nhẹ đến nặng. Đó có thể là một dấu hiệu của các bệnh viêm phổi cấp và mạn tính, ung thư phổi… Ho ra máu có thể xảy ra đột ngột trong lúc người bệnh cảm thấy khỏe mạnh hoặc sau khi hoạt động mạnh…
Thông thường, 90% trường hợp ho ra máu là do bệnh lao đang tiến triển (nếu kèm ho kéo dài, sốt nhẹ, sút cân thì càng chắc chắn). Nếu ho ra máu chút ít lẫn trong đờm, tái phát một vài lần mà không có sốt hoặc sút cân cũng nên nghĩ đến bệnh lao.
Ho thường do những bệnh của đường hô hấp, nhưng cũng có khi ho do bệnh ở ngoài đường hô hấp, đó là các bệnh sau:
Ho do viêm họng cấp : Ho có đờm hoặc ho khan , sốt cao, có khi không sốt. Nuốt vướng, có cảm giác rát họng. Họng đỏ, có hạt hoặc có mủ. Amidan có thể sưng.
Viêm thanh quản : Ho khan . Nói khàn hoặc mất tiếng. Bệnh bạch hầu thanh quản tiếng ho ông ổng. Thể trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng. Có màng trắng ở họng, gây khó thở, nhiều khi phải mở khí quản.
Viêm khí quản, phế quản cấp : Sốt cao, giai đoạn đầu ho khan, giai đoạn sau có đờm. Đờm đặc hoặc loãng, màu trắng hoặc vàng.
Điều trị sớm sẽ mau khỏi.
Viêm phế quản mạn : Thường gặp ở người hút thuốc lá (75%). Ho có nhiều đờm
, mỗi năm ho khạc 3 tháng, trong
vòng hai năm liền. Bệnh hay tái phát do những đợt bội nhiễm hoặc tiếp xúc với các tác nhân gây viêm như không khí lạnh, độ ẩm cao, hít phải hơi độc.
Giãn phế quản: Ho nhiều về buổi sáng, có rất nhiều đờm. Để đờm vào cốc, thấy lắng thành 3 lớp: dưới là mủ, giữa là chất nhày, lớp trên cùng là bọt lẫn dịch. Giãn phế quản có khi ho ra máu . Hay tái phát do đợt bội nhiễm.
Hen phế quản : Thường gặp ở lứa tuổi trẻ và trung niên. Người bệnh không sốt. Khó thở từng cơn, cơn hay gặp về ban đêm, trong lúc khó thở thấy tiếng rít cò cử. Sau cơn bệnh nhân ho và khạc ra nhiều đờm trắng, loãng. Hay tái phát nhiều lần do bội nhiễm, khi đó thì đờm có màu vàng.
Ho gà: Gặp ở trẻ nhỏ, có sốt. Ho từng cơn, cuối cơn ho có tiếng rít như tiếng rít của gà gáy. Ho nhiều có thể vỡ phế nang, gây tràn khí màng phổi.
Ho do dị vật đường hô hấp : Ho sặc sụa, mặt tím tái, có tiếng thở rít, người ngột ngạt như sắp chết. Khi dị vật xuống sâu và
ổn định thì đỡ ho, đỡ khó thở. Dị vật gây viêm nhiễm thì ho có đờm hoặc có máu, ho dai dẳng, sốt cao, đau ngực.
Viêm phổi : Sốt cao, rét run, đau ngực, ho có đờm quánh , dính, màu rỉ sắt. Bạch cầu trong máu tăng cao. Chụp Xquang phổi có hình ảnh viêm phổi.
Lao phổi : Sốt hâm hấp về chiều,
người gầy, sút cân, chán ăn. Ho dai dẳng
, ra đờm đặc, có khi lẫn máu hoặc
ho ra máu tươi . Tìm thấy
vi khuẩn lao trong đờm.
Áp-xe phổi : Sốt cao, đau ngực. Ho khan hoặc có đờm. Khi ổ áp-xe vỡ thông vào phế quản thì ho ra nhiều đờm như mủ, mùi tanh hoặc rất thối.
Bệnh bụi phổi: Gặp ở người tiếp xúc với bụi ở công trường, hầm mỏ, làm đường, công nhân nhà máy dệt, may, xi-măng… Bệnh nhân ho kéo dài, ra đờm màu đen, đục. Những đợt bội nhiễm thì ho tăng hơn. Bệnh kéo dài, ảnh hưởng đến toàn thân.
Bệnh màng phổi : Viêm màng phổi có dịch, ho do màng phổi bị kích thích, ho khi thay đổi tư thế.
Ung thư phế quản : Gặp ở
người già, người hút thuốc lá. Người bệnh gầy sút nhanh,
ăn uống kém, đau ngực, ho ra máu. U chèn ép nhiều gây khó thở, xẹp phổi. Cần phải chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực để xác định.
Ho do các nguyên nhân tim mạch : Tăng áp lực động mạch phổi, phổi bị ứ huyết, gặp trong các bệnh hẹp van hai lá, tâm phế mạn, suy tim, viêm màng ngoài tim khô hoặc có dịch.
Áp-xe gan, dưới cơ hoành : Gây phản ứng phổi – màng phổi, kích thích màng phổi gây ho.
Ngoài ra, khi phụ nữ có thai, u xơ
tử cung, bệnh trào ngược dạ dày, người rối loạn tinh thần… hoặc mắc một số bệnh toàn thân kèm viêm đường hô hấp cũng có ho, như bệnh cúm, sởi, bạch cầu, thương hàn, rubeol, nhiệt thán, các bệnh thuộc phạm vi tai – mũi – họng. Ho còn gặp trong trường hợp nhiễm không khí nóng hoặc lạnh, hít phải các hơi độc, hóa chất, thuốc lá gây kích thích niêm mạc đường hô hấp.